24 April, 2014 0 nhận xét Nhận xét
Viêm tiền liệt tuyến mãn tính làm tăng gần gấp đôi nguy cơ mắc ung thư tiền liệt tuyến
Một nghiên cứu mới tiến hành bởi các nhà khoa học từ trung tâm Johns Hopkins Kimmel Cancer Center tại Baltimore đã phát hiện, so với nam giới không có các dấu hiệu này, những người mắc viêm mãn tính tại các mô tiền liệt tuyến không phải ung thư gần như tăng gần gấp đôi khả năng phát triển bệnh ung thư tiền liệt tuyến.
Nghiên cứu cũng chỉ ra mối liên kết giữa viêm tiền liệt tuyến mãn tính và ung thư tiền liệt tuyến thậm chí còn mạnh mẽ hơn ở những nam giới với điểm ung thư cao – những người có điểm số Gleason từ 7 – 10. Điểm Gleason được đánh giá bằng cách xem xét các tế bào ung thư dưới kính hiển vi: điểm cao hơn thường có nghĩa là có nghiều tế bào trông bất thường và bệnh ung thư đang tiến triển nhanh hơn.
Các nhà nghiên cứu chỉ ra nghiên cứu của họ đã phát hiện một mối liên hệ và không phải một nguyên nhân – kết quả của nó không chứng minh rằng viêm tiền liệt tuyến mãn tính dẫn tới ung thư tiền liệt tuyến. Dù có tin hay không – quan điểm về viêm tiền liệt tuyến khá phổ biến – thì viêm nhiễm nên được dùng để chẩn đoán ung thư tiền liệt tuyến.
Những phát hiện này được đăng trên tạp chí Cancer Epidemiology, Biomarkers & Prevention . Cả đội nói rằng cần phải tiến hành thêm nhiều nghiên cứu nữa để tìm ra nguyên nhân gây ra viêm tiền liệt tuyến cũng như những nguyên nhân ấy có thể dẫn tới bệnh ung thư như thế nào và có thể ngăn ngừa được hay không.
Theo Hiệp hội ung bướu Mỹ, ung thư tiền liệt tuyến là loại ung thư phổ biến thứ 2 ở nam giới tại Mỹ. Khoảng 1 trong 7 đàn ông sẽ mắc bệnh này trong suốt cuộc đời.
“Mối liên quan rõ ràng” giữa viêm tiền liệt tuyến và ung thư tiền liệt tuyến
Những nam giới có các dấu hiệu viêm tiền liệt tuyến mãn tính sẽ có nguy cơ cao hơn 1.78 lần mắc ung thư cùng loại dù người đó có kết quả PSA (xét nghiệm kháng nguyên đặc hiệu với tiền liệt tuyến) thấp khi làm sinh thiết.
Đồng tác giả, giáo sư Elizabeth A.Platz tại khoa dịch tễ học, trường đại học Johns Hopkins University Bloomberg School of Public Health và tại trường School of Medicine, nói:
“Những điều chúng tôi chỉ ra trong nghiên cứu quan sát này là mối liên hệ rõ ràng giữa viêm tiền liệt tuyến và bệnh ung thư cùng loại, mặc dù chúng tôi không thể chứng minh viêm nhiễm là một nguyên nhân dẫn tới ung thư tiền liệt tuyến”.
Giáo sư Platz và đồng nghiệp đã phân tích các mẫu thử từ nam giới tham gia cuộc thử nghiệm ngăn ngừa ung thư tiền liệt tuyến Southwest Oncology Group’s Prostate Cancer Prevention trial. Cuộc thử nghiệm đã so sánh những nam giới dùng thuốc giảm nồng độ hoc môn DHT finasteride (làm giảm kích thước tiền liệt tuyến) với người dùng giả dược, để xách định xem thuốc có thể ngăn ngừa ung thư tiền liệt tuyến hay không.
Đội nghiên cứu có hứng thú với nhóm dùng giả dược, và đặc biệt, thực tế tất cả họ đều tiến hành làm sinh thiết ở cuối cuộc thử nghiệm, ngay cả khi không có lý do đặc biệt nào để phải làm vậy.
Đây là một tính chất quan trọng của thiết kế nghiên cứu vì các điều tra trước đó về mối liên hệ giữa viêm và ung thư tiền liệt tuyến đã lấy mẫu mô từ những người làm sinh thiết có lý do – chẳng hạn, nếu họ có kết quả xét nghiệm PSA cao. Vì vậy, đội nghiên cứu muốn loại bỏ những thành kiến có thể được đưa ra theo cách này, giáo sư Platz giải thích.
“Vì viêm nhiễm làm cho nồng độ PSA cao lên, nam giới bị viêm sẽ có kết quả PSA cao hơn và, với chỉ số PSA tăng lên. Những người này cần tiến hành làm sinh thiết. Càng làm sinh thiết nhiều đối với những người này, càng dễ phát hiện sớm bệnh ung thư, thậm chí nếu viêm không phải là nguyên nhân của bệnh ung thư tiền liệt tuyến”.
Số liệu từ nhóm dùng giả dược cho phép đội nghiên cứu để kiểm tra các mẫu mô không phải ung thư từ sinh thiết 191 nam giới mắc ung thư tiền liệt tuyến và 209 người không mắc. Họ phân tích các mẫu về sự hiện diện và số lượng các tế bào miễn dịch thể hiện sự viêm nhiễm.
Tỉ lệ mắc là như nhau ngay cả khi nồng độ PSA thấp.
Họ phát hiện ít nhất 1 mẫu mô với các dấu hiệu viêm nhiễm trong 86.2 % nam giới mắc ung thư tiền liệt tuyến so với 78.2% những người không bị.
Các kết quả cũng chỉ ra rằng nam giới với ít nhất một mẫu mô có dấu hiệu viêm mãn tính sẽ có nguy cơ cao hơn 1.78 lần mắc ung thư, và 2.24 mắc ung thư ác tính (điểm Gleason từ 7 – 10).
Tỉ lệ này ngang nhau ở cả những người chỉ số PSA thấp tại thời điểm làm sinh thiết.
Đồng tác giả Angelo M.De Marzo, giáo sư về bệnh lý học tại trường Johns Hopkins’s school of Medicine, đồng thời phó chủ nhiệm nghiêm cứu bệnh lý học ung thư, nói:
“Chúng tôi biết rằng, làm nghiên cứu này về viêm tiền liệt tuyến sẽ rất phổ biển ở nam giới những người làm sinh thiết do tỉ số PSA cao và các chỉ số khác về ung thư tiền liệt tuyến. Nhưng chúng tôi không dự đoán có tỉ lệ cao viêm tiền liệt tuyến ở nam, những người không cần làm sinh thiết”.
Đội nghiên cứu hiện tại đang điều tra chi tiết hơn xem PSA và viêm nhiễm liên quan như thế nào tới dấu hiệu cần làm sinh thiết tiền liệt tuyến. Các nhà khoa học cũng muốn tìm hiểu các mối liên quan có thể có giữa lịch sử mắc các bệnh tình dục và viêm tiền liệt tuyến.
Viện ung thư quốc gia Mỹ National Institutes of Health’s National Cancer Institute tài trợ cho nghiên cứu này.
Trong khi đó, Medical News Today tìm hiểu xem MRI scan có thể giúp chẩn đoán ung thư tiền liệt tuyến chính xác hơn như thế nào. Một cuộc thử nghiệm tại Úc gợi ý việc dùng các kĩ thuật hình ảnh để đưa ra hướng làm sinh thiết nhằm cải thiện đáng kể việc chẩn đoán bệnh ung thư tiền liệt tuyến đe dọa tính mạng. Hi vọng này đang được dùng giống như phương hướng có thể giảm việc chẩn đoán thái quá các trường hợp không nguy hiểm cũng như tránh các tác dụng phụ của biện pháp điều trị không cần thiết.
Medshop.vn dịch
Theo Medicalhealthnewstoday
Đánh giá