1.Vì sao phụ nữ mang thai dễ bị nhiễm nấm âm đạo?
Khi mang thai, nồng độ progesteron và estrogen trong cơ thể phụ nữ sẽ tăng đáng kể. Progesteron ức chế bạch cầu trung tính chống lại tác nhân Candida.
Estrogen phá vỡ sự toàn vẹn của các tế bào biểu mô âm đạo với tác nhân này và làm giảm các globulin miễn dịch trong dịch tiết âm đạo. Chính vì thế phụ nữ mang thai rất dễ bi nhiễm nấm Candida. Hơn nữa, nồng độ progesteron và estrogen tăng duy trì trong suốt thời kỳ mang thai, nên nguy cơ tái nhiễm nẫm lại rất dễ xảy ra.
2. Nên dùng thuốc nào điều trị nấm âm đạo?
Hiện tại có khá nhiều loại thuốc điều trị nấm âm đạo, nhưng các dữ liệu về độ an toàn của các thuốc kháng nấm tác dụng tại chỗ còn khá hạn chế.
Các thuốc nhóm imidazol như miconazol và clotrimazol tác dụng tại chỗ có đủ dữ liệu nên được khuyến cáo lựa chọn hàng đầu.
- Miconazol được phân loại ở mức độ C theo xếp loại nguy cơ trong thai kỳ của Cơ quản lý Thuốc và Thực phẩm Mỹ (FDA). Tuy nhiên, dạng đặt âm đạo của thuốc này ít được hấp thu qua đường toàn thân. Các thử nghiệm lâm sàng trên bệnh nhân ở 3 tháng thứ nhất không thấy tác dụng có hại của miconazol cho người mẹ hoặc thai nhi.
- Clotrimazol dạng đặt âm đạo được phân loại ở mức độ B theo xếp loại nguy cơ trong thai kỳ. Các nghiên cứu trong 3 tháng thứ hai của thai kỳ và 3 tháng thứ ba của thai kỳ cũng chưa thấy kết cục có hại của thuốc này cho người mẹ hoặc thai nhi. Trong các nghiên cứu chưa có đủ dữ liệu để phân loại nguy cơ clotrimazol trong 3 tháng thứ nhất của thai kỳ.
Viêm âm đạo do nấm Candida khó điều trị hơn trong thời gian mang thai và dễ tái phát. Do đó, khoảng thời gian điều trị được khuyến cáo là cần từ 7-14 ngày (tùy từng trường hợp).
Mặc dù, các nghiên cứu đã chứng minh là thuốc an toàn cho phụ nữ mang thai, nhưng khuyến cáo phụ nữ mang thai không nên tự ý dùng các thuốc này khi chưa có hướng dẫn của bác sĩ.
3. Không dùng thuốc chống nấm fluconazol đường uống vì tăng nguy cơ sảy thai
Fluconazol đường uống dễ sử dụng và hiệu quả cao điều trị nhiễm nấm âm đạo ở phụ nữ không mang thai. Trước đây, fluconazol được xem là an toàn ở liều điều trị, nhưng các dữ liệu gần đây đã khiến các nhà khoa học còn tranh luận nhiều khi sử dụng thuốc cho phụ nữ mang thai.
Theo đó, các dữ liệu cho thấy tỷ lệ sảy thai ở phụ nữ dùng fluconazol đường uống cao hơn đáng kể so với những bệnh nhân không điều trị hoặc điều trị bằng các thuốc nhóm imidazol tác dụng tại chỗ. Dựa trên những dữ liệu này, các nhà khoa học khuyến cáo cần tránh sử dụng fluconazol cho phụ nữ mang thai nếu có thể.
Các dữ liệu trên động vật cho thấy fluconazol liều cao còn có liên quan với dị tật xương sọ - mặt. Phân tích trên 1.079 phụ nữ ở Đan Mạch đang mang thai hoặc thai lưu hơn 20 tuần cho thấy fluconazol dùng ngắn hạn ở 3 tháng thứ nhất của thai kỳ không liên quan đến dị tật bẩm sinh. Tuy nhiên, theo một nghiên cứu lớn hơn ở Đan Mạch cho thấy nguy cơ sẩy thai tự phát cao hơn 48% ở những bệnh nhân dùng fluconazol, thậm chí dùng liều thấp so với những bệnh nhân không dùng thuốc này.
Phụ nữ dùng fluconazol có nguy cơ sẩy thai tự phát cao hơn 62% so với những người được điều trị bằng các thuốc nhóm azol tác dụng tại chỗ. Từ đó, FDA đã có cảnh báo về độ an toàn của việc kê đơn fluconazol đường uống trong thai kỳ.
Để giảm tình trạng nhiễm nấm âm đạo cũng như hỗ trợ điều trị, chị em phụ nữ có thể cân nhắc dùng viên bổ sung lợi khuẩn âm đạo.
Sưu tầm
Theo SKĐS
Đánh giá