11 March, 2020 0 nhận xét Nhận xét
Theo một nghiên cứu gấn đây, phụ nữ trải qua biện pháp hỗ trợ sinh sản nhưng không mang thai tăng nguy cơ phát triển bệnh tim về sau hơn. Tuy nhiên nguy cơ tác giả cho biết phát hiện này không làm giảm lượng người theo phương pháp hỗ trợ sinh sản.
Nghiên cứu công bố trên tờ Canadian Medical Association Journal, với dữ liệu hơn 28,00 phụ nữ với độ tuổi trung bình 35, là những người tham gia điều trị từ năm 1993 đến 2011 và được theo dõi đến năm 2015.
2/3 những phụ nữ này không mang thai trong vòng 12 tháng điều trị. So với những người đã có em bé, những phụ nữ này sau này bị đột quỵ, tim mạch cao hơn 19%.
Không có nhiều dữ liệu về tác động lâu dài tới sức khỏe của những kĩ thuật hỗ trợ sinh sản, tác giả cho biết. Tuy nhiên những nghiên cứu quan sát cho biết mối liên hệ giữa việc tăng lượng hormone buồng trứng, là kết quả của biện pháp hỗ trợ sinh sản và các biến chứng trong quá trình mang thai như huyết áp cao, máu nhỏ giọt và tiểu đường thai kỳ.
“Ảnh hưởng nghiêm trọng như vậy là hiếm gặp, tuy nhiên chúng tôi thắc mắc liệu đây có phải là phần nổi của tảng băng chìm,” theo tác giả nghiên cứu Dr. Jacob Udell, nhà khoa học tại Viện đánh giá nghiên cứu khoa học lâm sàng và là chuyên gia tim mạch tại Peter Munk Cardiac Centre và bệnh viện Women’s College Hospital.
Sự khác biệt về nguy cơ bệnh tim giữa hai nhóm phần lớn được phát hiện trong 5 năm đầu thực hiện biện pháp hỗ trợ thụ thai,. Những phụ nữ có tiền sử sẩy thai có nguy cơ đặc biệt cao.
Udell nhấn mạnh là nguy cơ cho tất cả những phụ nữ trong nghiên cứu ở tỉ lệ thấp. khoảng 10 ca bệnh tim xuất hiện trên mỗi 1000 phụ nữ không mang thai, trong khi 6 ca cho mỗi 1000 phụ nữ đã mang thai. Do đây là nghiên cứu đầu tiên nó còn cần được kiểm chứng với những nghiên cứu khác.
“Chúng tôi không muốn cảnh báo, và chắc chắn là không muốn đây là thông điệp rằng bạn nên ngừng các công nghệ hỗ trợ sinh sản này,” ông cho hay. “Tuy nhiên đây là cơ hội để phụ nữ phản ánh những yếu tố nguy cơ với bệnh tim, kể cả tại thời điểm thực hiện điều trị hay sau này, để trao đổi với bác sĩ chuyên gia.”
Dr. Alan Copperman, giám đốc của Division of Reproductive Endocrinology and Infertility tại bệnh viện Mount Sinai Hospital ở New York, có rất nhiều mối quan tâm tới kết quả nghiên cứu này. Điều quan trọng nhất là, biện pháp hỗ trợ sinh sản ngày nay có sự khác biệt đáng kể hơn những năm 1990 và đầu những năm 2000 là thời điểm mà phần lớn dữ liệu được thu thập.
“Tôi muốn đảm bảo rằng chúng ta đang so sánh phù hợp,” theo Copperman. “Hai thập kỉ trước chúng ta có thể cho bệnh nhân dùng 10-12 lần hormone, thụ tinh, dùng thuốc và tiêm.”
Ngày nay, một bệnh nhân trung bình sẽ có 10 ngày tiêm và phần lớn phụ nữ sẽ có thai sau 1-2 lần cố gắng. “Điều này nghe hợp lí hơn, và công nghệ ngày nay khác với không nghệ chúng ta thường dùng.”
Copperman chỉ ra, và Udell cũng đồng ý kiến rằng những phụ nữ vô sinh có thể có điều kiện tiềm tàng ảnh hưởng đến khả năng mang thai và sức khỏe tim mạch. Những vấn đề này gồm hội chứng buồng trứng đa nang, béo phì, huyết áp cao hay cholesterol cao.
Tuy nhiên tác giả nghiên cứu cho biết kể cả khi các biện pháp hỗ trợ sinh sản thất bại là dấu hiệu sớm của vấn đề về tim mạch trong tương lai, không phải là nguyên nhân, thì việc tổng hợp thông tin là quan trọng. “Nếu chúng ta có thể xác định những phụ nữ ở thời điểm đó có khả năng có nguy cơ cao bị bệnh tim mạch, chúng ta có thể làm gì đó để ngăn ngừa nó.” Theo Udell. “Với những phụ nữ trẻ, đôi khi phản ứng đầu tiên với hệ thống sức khỏe là trong quá trình họ cố gắng thụ thai.
Các tác giả nghiên cứu cũng cho biết phát hiện của họ có thể có ích hơn khi nhiều phụ nữ trì hoãn lập gia đình và xem xét đông lạnh trứng. Copperman cho biết đó là “bước gian khổng lồ” để so sánh những phụ nữ khỏe mạnh chủ động mang thai với những phụ nữ có vấn đề về khả năng mang thai,
Cho đến nay, vẫn chưa thể biết liệu các biện pháp hỗ trợ sinh sản có ảnh hưởng lâu dài tới tim mạch hay chỉ là làm lộ ra vấn đề sức khỏe hiện tại của họ - và yếu tố ảnh hưởng nào vẫn chưa rõ ràng. “Đây là lựa chọn rất quan trọng đối với phụ nữ.” “Tuy nhiên họ cần cân nhắc cẩn thận, bao gồm cả việc những tác dụng phụ tiềm tàng và những nguy cơ dài hạn.”
Theo Health
Medshop.vn dịch
Các bài gần đây
Nguyên nhân gây dị ứng thực phẩm
Tiểu rát không phải luôn luôn là nhiễm trùng
Sẽ mất khoảng 5 ngày để người nhiễm biểu hiện triệu chứng virus corona
Đánh giá