04 December, 2019 0 nhận xét Nhận xét
1. Stress là gì?
Trong cuộc sống hằng ngày, bất cứ ai cũng có những cảm xúc buồn, thương, giận, ghét... Tuy nhiên khi một hoặc nhiều cảm xúc này lặp đi lặp lại nhiều lần và kéo dài, chúng sẽ ảnh hưởng xấu đến hệ thần kinh và dẫn đến bệnh tật. Những trường hợp này khoa học gọi là stress.
Cơ thể chúng ta đáp ứng với stress như thế nào?
Gần đây stress (căng thẳng, lo âu quá mức) được đề cập đến rất nhiều trong lĩnh vực sức khỏe nhưng người ta nói nhiều đến tác hại chung và đưa những lời khuyên cũng rất chung chung như: phải lạc quan trước điều buồn đau, phải ăn uống đầy đủ và tập luyện thể thao... Đây là những điều cần thiết cho sức khỏe song không dễ dàng thực hiện với người bị stress. Nguyên nhân gây ra hiện tượng stress rất khác nhau song phản ứng của cơ thể đối với chúng lại giống nhau. Vì thế cần có được những hiểu biết cần thiết về mỗi giai đoạn để có cách đối phó với stress tích cực và thành công.
Giai đoạn báo động
Các hoạt động tâm lý được tăng cường, đặc biệt là quá trình tập trung chú ý, ghi nhớ và tư duy. Khi cá thể tiếp xúc với các yếu tố gây stress, các chức năng sinh lý của cơ thể, đặc biệt là hệ thần kinh giao cảm tăng cường hoạt động, làm tăng huyết áp, nhịp tim, nhịp thở và trương lực cơ bắp... Giai đoạn này xảy ra nhanh từ vài phút đến vài giờ. Bệnh nhân thậm chí có thể chết trong giai đoạn này nếu yếu tố gây stress quá mạnh, quá phức tạp. Nếu vượt qua được, các phản ứng ban đầu chuyển sang giai đoạn thích nghi.
Giai đoạn thích nghi
Đây là giai đoạn sức đề kháng của cơ thể tăng lên, con người có thể làm chủ tình huống stress. Nếu khả năng thích ứng cao, các chức năng tâm sinh lý của cơ thể được phục hồi. Ngược lại, quá trình phục hồi sẽ không xảy ra và cơ thể chuyển sang giai đoạn kiệt quệ.
Giai đoạn kiệt quệ
Phản ứng với stress trở thành bệnh lý khi tình huống tress bất ngờ, dữ dội, kéo dài vượt quá khả năng thích nghi của cơ thể. Trong giai đoạn này các biến đổi tâm sinh lý tập trung ở giai đoạn báo động xuất hiện trở lại.
Về lâm sàng, phản ứng với stress cấp tính làm người bệnh hưng phấn quá mức cả về tâm lý lẫn thực thể với các biểu hiện: tăng trương lực cơ làm cho nét mặt căng thẳng, cử chỉ cứng nhắc, có cảm giác đau bên trong cơ thể; rối loạn thần kinh thực vật như nhịp tim nhanh, có cơn đau vùng trước tim, huyết áp tăng, khó thở, ngất xỉu, vã mồ hôi, nhức đầu, đau nhiều nơi, nhất là các cơ bắp. Bệnh nhân tăng cảm giác, nhất là thính giác, vì vậy tiếng động bình thường cũng trở nên khó chịu, dễ nổi cáu, bất an, kích động, rối loạn hành vi...
Mỗi người có một cách đáp ứng khác nhau
Sự đáp ứng sinh lý của mỗi cá thể với stress tùy thuộc vào sự nhận biết về các kích thích có hại cho họ hay không, cũng như phụ thuộc vào khả năng tiên đoán và kiểm soát các sự kiện có hại.
Sự nhận thức về khả năng kiểm soát có ảnh hưởng lên sự tác động của stress
Các sự kiện cũng không có tính gây stress như nhau ở tất cả mọi người. Mức độ stress phụ thuộc vào ý nghĩa của sự kiện và những tiềm năng sẵn có của mỗi người cũng như những kỹ năng và tiềm năng sẵn có của mỗi người trong việc ứng phó với sự kiện.
Khi một sự kiện được nhận định là lành tính, những cảm xúc tích cực như vui vẻ, yêu thương, hạnh phúc, phấn khởi, thanh thản sẽ diễn ra. Nếu sự kiện được đánh giá là tiêu cực, những cảm xúc như lo âu, sợ hãi, tội lỗi, thất vọng hoặc trầm uất sẽ xuất hiện. Những sự kiện, stress tích cực có tính tăng cường sức khoẻ. Trong khi cả việc nhận định sự kiện là tiêu cực cũng như việc xem xét các khả năng ứng phó là không đầy đủ và không hiệu quả là những yếu tố làm stress xuất hiện.
2. Stress và bệnh lý tim mạch
Căng thẳng tâm lý thúc đẩy quá trình vữa xơ động mạch
Căng thẳng tâm lý được cho là một yếu tố gây bệnh vữa xơ động mạch quan trọng. Những người hiểu biết về stress, có sức khỏe và tâm lý vững vàng sẽ dễ dàng vượt qua được những tác động của stress và luôn vui vẻ trong cuộc sống. Ngược lại, những người có cơ thể ốm yếu, suy sụp, không vượt qua và thích ứng nổi thì dễ phát sinh bệnh tật và có thể bị ảnh hưởng lớn bởi stress, thậm chí có thể bị đột tử khi gặp những cú sốc quá lớn trong cuộc đời.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 1998, sức khỏe của những người có công ăn việc làm thì tốt hơn những người thất nghiệp. Sự tổ chức công việc của xã hội, kiểu quản lý và những mối quan hệ xã hội tại nơi làm việc đều ảnh hưởng đến sức khỏe. Kiểm soát công việc kém có liên quan trực tiếp, rõ ràng với đau thắt ngực, nghỉ ốm và bệnh tim mạch. Kiểm soát tốt công việc làm giảm 2, 3 lần nguy cơ bị các bệnh tim mạch.
Bên cạnh 3 yếu tố nguy cơ chủ yếu gây vữa xơ động mạch là tăng cholesterol máu, tăng huyết áp và hút thuốc lá, căng thẳng tâm lý cũng được xác định là một yếu tố nguy cơ quan trọng. Căng thẳng tâm lý gây tăng hoạt động của hệ thần kinh giao cảm và do vậy gây ảnh hưởng xấu đến thành mạch, làm rối loạn tuần hoàn và tăng nguy cơ gây tổn thương các tế bào nội mạc, làm tăng tính thấm của tế bào nội mạc và do vậy làm tăng nguy cơ lắng đọng LDL-cholesterol tạo thuận lợi cho sự hình thành và phát triển vữa xơ động mạch.
Có thể đột tử vì stress
Đột tử là nguyên nhân gây tử vong phổ biến của các bệnh nhân bị vữa xơ động mạch, đặc biệt là vữa xơ động mạch vành. Do vậy, tác động tích cực lên quá trình vữa xơ động mạch sẽ làm giảm nguy cơ đột tử. Có giả thuyết cho rằng khi bị căng thẳng về tâm lý cấp tính có thể gây rung thất và đột tử, do kích hoạt hệ thống bảo vệ dẫn đến làm giảm đột ngột trương lực phó giao cảm. Thông qua cơ chế thần kinh phó giao cảm trung ương làm mất sự ổn định về điện học của tim, trong khi đồng thời làm tăng trương lực thần kinh giao cảm ở tim dẫn đến làm tăng tần số tim, tăng co bóp cơ tim, tăng huyết áp tâm thu và gây thiếu máu cơ tim ở các bệnh nhân có vữa xơ động mạch vành, làm tăng nguy cơ bị rung thất và đột tử.
GS.TS. Nguyễn Lân Việt
((Trưởng ban quản lý dự án Phòng chống bệnh tim mạch - Viện Tim mạch, Bệnh viện Bạch Mai))
Theo Sức khỏe đời sống
Các bài gần đây
Phụ nữ có thai nên “yêu” sắt, acid folic
Căn bệnh khó nói của phụ nữ sinh nhiều con
Đánh giá