06 June, 2017 0 nhận xét Nhận xét
Hệ thống tiêu hóa biến đổi thức ăn thành chất dinh dưỡng và hấp thu vào máu để cung cấp năng lượng cho cơ thể. Ở cơ thể khỏe mạnh, sức khỏe bình thường, hiếm khi mọi người chú ý đến hoạt động của hệ tiêu hóa trừ khi chúng gặp bất ổn, như trong trường hợp của bệnh viêm ruột.
Bệnh viêm ruột gồm hai bệnh mạn tính gây ra viêm ruột: viêm loét đại tràng và bệnh Crohn. Mặc dù các bệnh có một số tính năng chung, tuy nhiên chúng có một số khác biệt quan trọng: viêm loét đại tràng gây viêm đại tràng khiến niêm mạc ruột bị viêm đỏ và xuất hiện các vết loét gây đau. Khu vực dễ tổn thương nhất là trực tràng, gây tiêu chảy thường xuyên. Chất nhầy, máu thường xuất hiện trong phân. Bệnh Crohn gây viêm ở đoạn cuối ruột non - hỗng hồi tràng và một phần của ruột già. Các tổn thương này không định khu ở một chỗ và có thể lan tỏa ảnh hưởng các vị trí khác trên đường tiêu hóa. Viêm do Crohn ăn sâu vào các lớp của thành ruột và trong khi viêm loét đại tràng chỉ ảnh hưởng đến niêm mạc của ruột.
Thủ phạm gây viêm ruột
Bao gồm nhiều yếu tố như: môi trường, chế độ ăn uống và di truyền.
Các nghiên cứu hiện tại cho thấy bệnh viêm ruột có khả năng liên quan đến một khiếm khuyết di truyền ảnh hưởng hệ thống miễn dịch hoạt động và viêm được kích hoạt phản ứng với một đại lý vi phạm, giống như vi khuẩn, virut hoặc protein trong thực phẩm như thế nào. Bằng chứng cũng chỉ ra rằng hút thuốc lá có thể nâng cao khả năng phát triển bệnh Crohn.
Phân biệt hội chứng ruột kích thích và viêm ruột
Hội chứng ruột kích thích (IBS) và bệnh viêm ruột có các triệu chứng khá tương đồng như: đau bụng, nôn, thay đổi số lần đi đại tiện... và chúng rất dễ nhầm lẫn trong lâm sàng cũng như trong điều trị.
Hội chứng ruột kích thích còn gọi bằng các tên khác như: viêm đại tràng co thắt, rối loạn tiêu hóa chức năng, bệnh tiêu chảy do thần kinh… những rối loạn về tiêu hóa do IBS gây nên không do một nguyên nhân do tổn thương thực thể mà thường do các nguyên nhân tâm lý, chế độ ăn, thuốc... Triệu chứng của IBS như: đau bụng (thường là đau nửa dưới của bụng), trướng hơi, tiêu chảy hay táo bón hoặc xen lẫn cả hai... Nhưng IBS không bao giờ đi ngoài phân đen và đi ngoài ra máu.
Viêm ruột là tình trạng viêm nhiễm hệ thống ống tiêu hóa mạn tính. Bệnh Crohn là bệnh mạn tính ở ruột gây viêm và loét. Nó có thể xảy ra bất kỳ ở vị trí nào của ruột non, dạ dày, thực quản, mà đa số xuất phát từ hồi tràng (đoạn cuối của ruột non). Bệnh Crohn ảnh hưởng đến toàn bộ chiều dày của ống tiêu hóa, điều này giải thích tại sao bệnh được phát hiện khi ống tiêu hóa bị thủng hoặc gây nên áp-xe.
Triệu chứng của bệnh Crohn phụ thuộc rất nhiều vào vị trí bị viêm của đường ống tiêu hóa. Nhưng nhìn chung nó thường biểu hiện: tiêu chảy mạn tính, đau bụng âm ỉ, gầy sút cân, sốt, có thể sờ thấy u cục (thường ở phía bên phải ổ bụng).
Viêm loét đại tràng mạn tính là bệnh lý của đại tràng mà không có liên quan gì tới ruột non, dạ dày, hay thực quản. Nó chỉ ảnh hưởng đến phần niêm mạc của đại tràng có thể liên tục hoặc gián đoạn. Triệu chứng chính của viêm loét đại tràng mạn tính là: tiêu chảy, sau đó đi ngoài lẫn máu. Ở các trường hợp nặng hơn thì có sốt, đau bụng, đi ngoài ra máu số lượng nhiều.
Để phân biệt hội chứng ruột kích thích và bệnh viêm ruột thì lâm sàng quan tâm tới tiền sử liên quan đến những rối loạn tiêu hóa của bạn, những triệu chứng mang tính chất do tổn thương thực thể như: sốt, đi ngoài ra máu, đi ngoài phân đen.
Và quan trọng nhất là xét nghiệm cận lâm sàng để có những bằng chứng về tổn thương thực thể của đường ống tiêu hóa như: nội soi, nội soi sinh thiết, xét nghiệm phân, CT. Trong một số trường hợp các bác sĩ sử dụng liệu pháp kháng sinh để phân biệt hai bệnh này. Trên hết tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán bệnh viêm ruột là giải phẫu bệnh đánh giá tình trạng viêm được phân loại: nhẹ, trung bình hay nặng dựa vào sự xâm nhập của tế bào viêm.
Những ảnh hưởng của bệnh viêm ruột
Các nhà khoa học hiện vẫn đang tìm kiếm câu trả lời cho vấn đề này. Một số người bị viêm ruột có thể có các dấu hiệu của viêm nhiễm ở các nơi khác như ở các khớp, mắt, da và gan, vùng hậu môn có thể xuất hiện các áp-xe và trĩ.
Trẻ mắc bệnh viêm ruột loét đại tràng hay bệnh Crohn, có thể sẽ chậm lớn và chậm dậy thì do thiếu hấp thu dưỡng chất.
Bệnh viêm ruột có thể khó chẩn đoán do không có các triệu chứng rõ ràng ngay cả khi ruột đã bị ảnh hưởng trong nhiều năm. Các triệu chứng nếu có lại không đặc hiệu do đó gây khó khăn việc chẩn đoán bệnh.
Chế độ ăn uống phòng ngừa bệnh viêm ruột
Chế độ ăn uống có vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa các bệnh đường ruột, trong đó có viêm ruột. Vì vậy, cần tuân thủ nguyên tắc ăn uống sau đây.
Hạn chế các sản phẩm sữa: Những vấn đề như tiêu chảy, đau bụng và trướng bụng ở bệnh viêm ruột có thể được cải thiện khi hạn chế hoặc loại bỏ các sản phẩm sữa.
Ưu tiên lựa chọn thực phẩm ít chất béo: Nếu mắc bệnh Crohn, ruột non có thể không thể tiêu hóa hoặc hấp thụ chất béo bình thường. Thay vào đó, chất béo đi qua ruột khiến bị tiêu chảy nặng hơn. Những thực phẩm đặc biệt làm phiền hà người bệnh bao gồm bơ, bơ thực vật, nước sốt kem và các loại thực phẩm chiên.
Tránh một số thực phẩm tương kỵ: Loại bỏ những thực phẩm làm cho các dấu hiệu và triệu chứng viêm ruột nặng hơn. Những thực phẩm này có thể bao gồm đậu, bắp cải và bông cải xanh, nước trái cây nguyên liệu và hoa quả, đặc biệt là các loại trái cây họ cam quýt, thức ăn cay, bỏng ngô, rượu và thức ăn và thức uống có chứa caffeine như sôcôla và soda.
Ăn các bữa ăn nhỏ: Nếu cảm thấy tốt hơn, hãy ăn 5-6 bữa ăn nhỏ 1 ngày thay vì 2 hoặc 3 bữa lớn như những người thân.
Uống nhiều nước: Hãy cố gắng uống nhiều nước hàng ngày. Hạn chế rượu và đồ uống có chứa caffein kích thích ruột và có thể làm cho tiêu chảy nặng hơn, trong khi đồ uống có ga thường xuyên tạo ra khí.
BS. LÊ NGUYÊN
Theo Sức khỏe đời sống
Các bài gần đây
5 dấu hiệu bệnh phụ khoa nguy hiểm
Tim đập nhanh, hụt hơi nhiều - Bệnh gì?
Vitamin C và sức khỏe con người
Cách sơ cứu và phòng tránh say nắng
Sức khỏe sinh sản phụ nữ: Cân bằng hormone thời kì tiền mãn kinh
Những điều cần biết về bệnh tuyến giáp ở nam giới
Làm gì để bảo vệ mình khi thủy đậu vào mùa?
9 thực phẩm hạn chế ảnh hưởng của tia UV
Đánh giá